Năm 1972 Hội_nghị_Paris,_mặt_trận_ngoại_giao_năm_1968-1972

Tình hình quân sự và chính trị

Nhận thấy Hoa Kỳ chỉ muốn giải quyết vấn đề quân sự, lấy lại tù binh và không muốn giải quyết toàn bộ các vấn đề chính trị-quân sự-ngoại giao ở miền Nam Việt Nam cũng như chưa nắm được thực chất ý đồ của Hoa Kỳ khi tung ra đề nghị này, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa vội đưa ra phản đề nghị. Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở Paris nhận được chỉ thị chỉ nên giải quyết vấn đề trước xuân-hè 1972 nếu đối phương chấp nhận một giải pháp phù hợp với yêu cầu (của phía Cộng hòa miền Nam Việt Nam); nếu không, hãy đợi đến "sau khi thực hiện ý đồ chiến lược của ta trên chiến trường"[6].

Trong tháng 10-1971, Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam: "Tranh thủ thời gian, phấn đấu hoàn thành công tác chuẩn bị, xây dựng thế tiến công chiến lược mới bằng ba quả đấm mạnh trên ba vùng chiến lược (Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị-Thiên); mở cuộc tiến công và nổi dậy lớn nhằm đánh suy sụp nặng ngụy quân, ngụy quyền, đánh bại cơ bản kế hoạch bình định của địch"

Vào năm 1972, năm cuối cùng của giai đoạn một thuộc chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đã không tiêu diệt được cơ sở hạ tâng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng như bị mất nhiều địa bàn chiến lược sau Chiến dịch xuân-hè 1972, Chiến dịch Nguyễn HuệChiến dịch Trị Thiên vào tay đối phương. Tuy nhiên, về mặt chính trị, Hoa Kỳ đã đạt được một số bước tiến khi đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và khiến cho nước này tự nguyện hạn chế viện trợ cho Việt Nam. Đồng thời, trong quan hệ Xô-Mỹ cũng có cải thiện khi hai bên thống nhất được Hiệp định Hạn chế tên lửa đạn đạo (ABMT) cũng như khiến Liên Xô không viện trợ cho Việt Nam những vũ khí hiện đại hơn loại Việt Nam đang sử dụng cũng như cắt giảm khối lượng viện trợ quân sự.[69] Kết quả các chuyến đi thăm của Nixon đến Trung Quốc (tháng 2 năm 1972) và Liên Xô (tháng 5 năm 1972) có một số thỏa thuận song phương Trung-Mỹ và Xô-Mỹ bất lợi cho phía Việt Nam. Đối với Trung Quốc, họ đã gắn vấn đề Đài Loan với vấn đề khu vực Đông Nam Á như một thỏa thuận không chính thức. Henry Kisinger nhận xét: "Trung Quốc đã mở ra một mặt trận chung bằng một hiệp ước ngầm, không xâm lược với chúng ta"; "mối bất hòa giữa Hoa Kỳ và nước Trung Hoa mới đã chấm dứt. Nhiệm vụ hiện nay của hai bên là phải đối phó với khát vọng bá quyền" (ám chỉ Liên Xô); "Hai bên tìm kiếm sự hợp tác không phải thông qua một hiệp nghị chính thức mà bằng điều hòa một cách nhịp nhàng những sự thông cảm của nhau trong các vấn đề quốc tế có lợi ích của hai bên"; "Tùy tình hình căng thẳng trong khu vực này giảm đi, Hoa Kỳ sẽ dần dần giảm lực lượng và cơ sở quân sự của mình tại Đài Loan"[5]. Đạt được thành công ngoại giao ở Bắc Kinh, Nixon hài lòng và tiếp tục cuộc công du Liên Xô vào tháng 5 năm 1972 với mục tiêu: "Nhìn về phía Moskva để nghiền nát Việt Nam"[70]. Tại đây, Nixon cũng nhận được tín hiệu về việc "người Xô Viết đã không đáp ứng yêu cầu mới nào về trang bị của miền Bắc Việt Nam" theo như báo cáo của Kissinger.[70] Ngày 20 tháng 11 năm 1971, tại Bắc Kinh Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai khuyên Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng: "Việt Nam nên tranh thủ thời cơ giải quyết trước vấn đề rút quân Mỹ và quan tâm giải quyết vấn đề tù binh Mỹ, việc đánh đổ ngụy quyền Sài Gòn là vấn đề lâu dài"[71].

Sau khi được các đồng minh thông báo về kết quả các cuộc đàm phán Xô-Mỹ và Trung-Mỹ (đương nhiên, không phải là tất cả), Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam nhận thấy: "Tuy Cục diện chiến trường đã có một hình thái mới có lợi cho Việt Nam và tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam phát triển vững chắc sau này nhưng thắng lợi đó (chỉ kết quả Chiến cục năm 1972) chưa thật sự căn bản. Để ép Việt Nam đi vào giải pháp có lợi cho Hoa Kỳ, năm 1972, Nixon đã đi thăm Trung Quốc và Liên Xô nhằm tranh thủ hai nước này giảm bớt viện trợ cho Việt Nam xuống mức thấp nhất nhằm ngăn chặn Quân đội nhân dân Việt Nam đánh mạnh ở miền Nam. Nixon đã đi Trung Quốc thì Liên Xô cũng phải mời Nixon sang để Nixon không hợp tác quá sâu với Trung Quốc chống lại Liên Xô. Đó là mấu chốt của vấn đề"[72].

Ngày 30-03-1972, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát động Chiến dịch Xuân-hè 1972, trên cả ba chiến trường: Đông Nam Bộ, Trị-Thiên và Tây Nguyên. Ngày 06-04-1972, Không quân Hoa Kỳ ném bom miền Bắc. Ngày 26-04-1972, Tổng thống Nixon tuyên bố quay trở lại đàm phán.

Diễn biến của Hội nghị

Trước tháng 1 năm 1972, các cuộc đàm phán Việt Nam - Hoa Kỳ tại Paris luôn có hai trạng thái. Trạng thái công khai đối với các cuộc đàm phán bốn bên: đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (do Xuân Thuỷ dẫn đầu), đoàn Hoa Kỳ (do W. Averell Harriman rồi đến Henry Cabot Lodge dẫn đầu), đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (do Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình dẫn đầu) và đoàn Việt Nam Cộng hòa (do Trần Văn Lắm dẫn đầu); trạng thái bí mật đối với các cuộc "gặp riêng" giữa đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Cố vấn Lê Đức Thọ dẫn đầu với đoàn Hoa Kỳ do Cố vấn Henry Kissinger dẫn đầu. Kết quả các cuộc gặp bốn bên được các bên công bố công khai trong các cuộc họp báo riêng rẽ. Kết quả các cuộc gặp bí mật chỉ được công bố khi có sự đồng thuận của cả hai bên. Thực tế diễn biến các cuộc đàm phán cho thấy chính các cuộc gặp riêng Lê Đức Thọ - Kissinger đóng vai trò quyết định trên mặt trận ngoại giao này. Tuy nhiên trước khi thảo luận với phía Hoa Kỳ, Cố vấn Lê Đức Thọ thường họp để thống nhất quan điểm với các thành viên chủ chốt của cả hai phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòaChính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trong khi đó, phía Hoa Kỳ không hề hỏi ý kiến của Việt Nam Cộng hòa, điều này đã khiến Tổng thống Thiệu rất bất bình.

Trong phiên họp thứ 140, vào ngày 13-01-1972, phái đoàn Hoa Kỳ đưa ra yêu sách phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thảo luận trực tiếp với phái đoàn Việt Nam Cộng hòa chứ không thảo luận gián tiếp qua phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đồng thời,phái đoàn Hoa Kỳ cũng yêu sách phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam phải nêu rõ vùng kiểm soát của mình.[69] Tới ngày 27-01-1972, với mục đích để tăng phiếu ủng hộ của cử tri, phái đoàn Hoa Kỳ đưa ra đề nghị 8 điểm:

  1. Tất cả lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh sẽ rút khỏi Việt Nam trong 6 tháng;
  2. Tù binh được trao trả cùng ngày rút quân;
  3. Trong vòng 6 tháng, miền Nam sẽ tổ chức bầu cử Tổng thống với sự tham gia của tất cả các lực lượng chính trị;
  4. Cuộc bầu cử phải do Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu kiểm soát;
  5. Thực hiện ngừng bắn toàn Đông Dương;
  6. Không được bổ sung thêm lực lượng ngoại quốc ở Đông Dương;
  7. Quân đội quốc gia nào thì phải tập kết về lãnh thổ của quốc gia ấy;
  8. Một hội nghị quốc tế thay thế Hội nghị Paris hiện tại sẽ thảo luận về vấn đề của tất cả các nước Đông Dương chứ không chỉ riêng Việt Nam.

Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam phản đối vì cho rằng cuộc bầu cử do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu kiểm soát sẽ không đảm bảo dân chủ và tự do.[73] Ngày 14-01-1972, trong tài liệu chuẩn bị họp với Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn Bunker, Nguyễn Văn Thiệu đã biết Nixon đã có dự định công bố nội dung các cuộc gặp bí mật giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Phía Việt Nam Cộng hòa có ý trách Hoa Kỳ đã không thông báo với họ về nội dung các cuộc gặp bí mật, bao gồm cả việc Hoa Kỳ sẵn sàng ký với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một thỏa ước có tính nguyên tắc liên quan tới chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và tình hình chính trị của miền Nam. Phía Việt Nam Cộng hòa cũng đòi hỏi phía Hoa Kỳ làm rõ các nội dung liên quan tới Cơ quan điều phối Tổng tuyển cử (phía Thiệu muốn cơ quan này phải là của Việt Nam Cộng hòa), chính sách ngoại giao trung lập của miền Nam, bố trí lực lượng các bên sau khi ký Hiệp định và thời điểm rút quân của các lực lượng quân sự ở miền Nam. Trong tài liệu này, phía chính quyền Nguyễn Văn Thiệu cũng cho rằng việc Hoa Kỳ lập lờ trong việc rút các lực lượng ngoại quốc khỏi Đông Dương có nghĩa là Hoa Kỳ và các đồng minh rút quân còn phe Cộng sản thì không. Tổng thống Thiệu cũng thông báo với Hoa Kỳ là Việt Nam Cộng hòa sẽ không chấp nhận một thỏa thuận như vậy giữa Hoa Kỳ và liên minh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Cộng hòa miền Nam Việt Nam.[74]

Mặc dù phía Việt Nam chỉ chưa trả lời chứ không phản bác nhưng ngày 25 tháng 1 năm 1972, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã họp báo, công bố nội dung các cuộc gặp riêng giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ từ năm 1969 đến năm 1971, quy kết cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bác bỏ mọi đề nghị của Hoa Kỳ, đòi loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu và chuẩn bị các hoạt động tấn công quân sự[70]. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam nhận định đây là đòn tấn công ngoại giao đầu tiên của Nixon trong năm 1972 với ba mục tiêu:

  • Chứng minh cho nhân dân và phe đối lập ở Hoa Kỳ thấy rằng ông ta đã đi trước một bước trong việc tìm kiếm giải pháp hòa bình và chấm dứt sự dính líu quan sự của Hoa Kỳ vào vấn đề miền Nam Việt Nam.
  • Mở đường dư luận có lợi cho các chuyến công du của Hoa Kỳ tới Trung Quốc và Liên Xô trong năm 1972 với mục đích lập lại thế cân bằng chiến lược toàn cầu nói chung và ở Đông Nam Á nói riêng thông qua các thỏa thuận về hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn I (SALT I) với Liên Xô và các vấn đề xung đột ở Đông Nam Á, vấn đề Đài Loan với Trung Quốc.
  • Chuẩn bị dư luận có lợi cho Đảng Cộng hòa mà chính Nixon là ứng cử viên số 1 của đảng này trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ lần thứ 38 sẽ diễn ra vào đầu tháng 11 năm 1972[6].

Những động thái trên đây của phía Hoa Kỳ chỉ có tác dụng trong vòng một tuần vì không giải quyết được mâu thuẫn cốt yếu: Rút quân nhưng tiếp tục bảo hộ cho Nguyễn Văn Thiệu, không xác định được thời hạn chấm dứt chiến tranh và do đó, không mở ra được hy vọng đưa tù binh Mỹ trở về nhà[6].

Đề nghị trên đây đã được Thượng nghị sĩ Edmund Muski, ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 38 hưởng ứng. Những đòi hỏi về việc rút quân Mỹ về nước và chấm dứt viện trợ chiến tranh cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu trở thành chủ đề thường xuyên của phe đối lập tại Hạ nghị việnThượng nghị viện Hoa Kỳ trong suốt năm 1972[6].

Tới ngày 31-01-1972, để phản đối phía Hoa Kỳ công khai nội dung các phiên họp bí mật, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố dự thảo 9 điểm, vốn đã được trao đổi trước với cố vấn Kissinger vào tháng 6 năm 1971. Đến ngày 31 tháng 1, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không đưa ra phản đề nghị mà cho công bố dự thảo giải pháp chín điểm (đã được trao cho Kissinger ngày 26 tháng 6 năm 1971) như một biện pháp trả đũa đồng thời phản đối Nhà Trắng đã vi phạm thỏa thuận không công bố công khai các cuộc gặp riêng. Ngày 2 tháng 2, đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam giải thích hai điểm quan trọng trong lập trường bảy điểm của họ (đã đưa ra ngày 1 tháng 7 năm 1971), trong đó có những nhượng bộ đáng kể:

  • Nếu Hoa Kỳ xác định được thời hạn rút Quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh khỏi miền Nam Việt Nam thì thời điểm rút hết quân sẽ là thời điểm bắt đầu trao trả tù binh của các bên (nghĩa là không cần chờ đến khi hiệp định được ký kết).
  • Không yêu cầu thay đổi chính thể hiện hữu ở miền Nam Việt Nam mà chỉ yêu cầu Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức ngay. Đồng thời, chính thể này phải thay đổi chính sách: chấm dứt bình định, giải tán các trại tập trung, chấm dứt khủng bố dân chúng, thả các tù chính trị, bảo đảm thực hiện các quyền tự do dân chủ của dân chúng như Hiệp định Genève đã quy định năm 1954[75]

Tại phiên họp thứ 143, phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố hai điểm: Thứ nhất, Mỹ phải rút quân, chấm dứt các hoạt động quân sự ở Việt Nam và phải đưa ra thời điểm rút quân rõ ràng-thời điểm này là lúc trao trả tù binh và dân thường; Thứ 2, Mỹ phải ngừng can thiệp vào đời sống chính trị ở miền Nam, chính quyền Thiệu phải chấm dứt các chính sách và hoạt động quân sự, từ bỏ chính sách kìm kẹp nhân dân. Phía Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã có nhân nhượng khi không có yêu sách chính quyền Việt Nam Cộng hòa phải bị giải tán.[76]

Tới phiên họp thứ 144, ngày 10-02-1972, phái đoàn Hoa Kỳ tuyên bố không họp phiên 145 để họp Hội nghị thế giới về hòa bình và độc lập của các dân tộc Đông Dương[77] Để đáp trả, Trưởng đoàn Xuân Thủy của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố ngừng họp phiên 146 và thông báo tới toàn thế giới việc Hoa Kỳ đã ném bom Vĩnh Linh và Quảng Bình trong hai ngày 16 và 17-02-1972 (đúng dịp Tết Nguyên đán), khiến nhiều dân thường bao gồm cả phụ nữ và trẻ em thiệt mạng. Những ngày sau đó, Không quân Hoa Kỳ đã sử dụng B-52 để tấn công các khu vực thuộc Vịnh Bắc bộ và các điểm đóng quân của Việt Nam tại Lào và Campuchia. Việc Hoa Kỳ ném bom chứng tỏ phía Hoa Kỳ không thực tâm trong mong muốn có hòa bình ở Việt Nam và điều này đã buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngừng đàm phán.[78]

Tại phiên họp thứ 147, ngày 23-03-1972, phía Hoa Kỳ tuyên bố ngừng đàm phán vô thời hạn. Ngày 30-03-1972, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát động Chiến dịch Xuân-hè 1972. Ngày 06-04-1972, Không quân Hoa Kỳ ném bom miền Bắc. Ngày 26-04-1972, Tổng thống Nixon tuyên bố quay trở lại đàm phán. Đồng thời, Nixon tuyên bố ngay trong tháng 2 sẽ có 20.000 lính Mỹ hồi hương, quân số cao nhất sẽ là 49.000 người vào 01 tháng 07. Tuy nhiên, Hoa Kỳ không ngừng đánh phá miền Bắc.[79]

Ngày 26-04-1972, phiên họp thứ 148 và 149 tiếp tục bế tắc do lập trường các bên quá khác biệt, tình hình chiến trường vẫn đang có lợi cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngày 08-05, Nixon tuyên bố sẽ rút quân Mỹ trong bốn tháng, ngừng mọi hoạt động quân sự nếu có ngừng bắn ở Đông Dương. Ngày 09-05-1972, Nixon trong thư gửi Thiệu tuyên bố Hoa Kỳ sẽ phong tỏa các hải cảng ở miền Bắc và tái khẳng định Mỹ sẽ rút quân.

Trong cuộc gặp riêng ngày 2 tháng 5, phía Hoa Kỳ đã đáp ứng một yêu cầu cơ bản của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền nam Việt Nam là không đòi rút Quân đội Nhân dân Việt Nam khỏi miền Nam nhưng vẫn duy trì chính thể của Thiệu trong một giải pháp hòa bình, hòa giải quốc gia. Để đổi lại, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền nam Việt Nam cũng rút đề nghị yêu cầu giải tán chính quyền VNCH nhưng chính quyền này phải thay đổi chính sách chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền nam Việt Nam và trong thời hạn nhất định phải tổ chức bầu cử dân chủ ở miền Nam với sự tham gia của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và lực lượng chính trị thứ ba với phương châm hòa bình, hòa hợp dân tộc. Mặc dù có một số điểm nhất trí cơ bản đã đạt được và nhiều điểm còn cách xa nhau nhưng đến cuộc gặp riêng ngày 19 tháng 7, các đoàn VNDCCH và đoàn Hoa Kỳ đều đưa ra được tuyên bố về chính sách chung trong khi bom đạn vẫn nổ rền trên các chiến trường.[6]

Trong cuộc trả lời phỏng vấn của nhà báo Anthony Lewis, phóng viên tờ New York Time diễn ra ngày 23 tháng 5 năm 1972, Ngoại trưởng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh không trả lời cụ thể về quan hệ của Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam nhưng đã chỉ ra con đường duy nhất để cứu vãn danh dự của Hoa Kỳ là chấm dứt chiến tranh, tôn trọng các quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; bằng cách đó, Hoa Kỳ có thể bảo đảm an toàn cho quân nhân Mỹ, đưa hết quân nhân Mỹ - kể cả những người bị bắt - về nước. Ông cũng cho rằng đại dương bao la không ngăn cản nhân dân hai nước (Việt Nam và Hoa Kỳ) cùng chung lý tưởng cao cả độc lập và tự do[80].

Ngày 21 tháng 6, Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong đó có nhận định: "Trong mấy tháng tới, Việt Nam có khả năng buộc Mỹ chấp nhận một giải pháp vững chắc; đồng thời vẫn nên chuẩn bị cho khả năng chiến tranh kéo dài sau năm 1972".[81].

Phía Hoa Kỳ cũng có những động thái tích cực hơn do phải giải quyết những vấn đề của họ. Một phần do sự cam kết của họ với Liên Xô, Trung Quốc về chấm dứt sự dính líu trực tiếp về quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam mà vẫn duy trì được Việt Nam Cộng hòa. Sau đó là giữ lời hứa của Nixon với chính nhân dân Mỹ trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1968 về việc sẽ đi đến một hiệp định hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đưa quân nhân Mỹ (kể cả tù binh) về nước. Một phần do sự thúc ép của chiến dịch tranh cử tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ thứ 38 mà Nixon đang hy vọng tái cử.

Tới 13-07-1972, sau 10 tuần hoãn đàm phán, Hội nghị họp phiên thứ 150, kế hoạch tái chiếm Thành cổ Quảng Trị của Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ thất bại. Phía Hoa Kỳ đề nghị sử dụng công thức ngừng bắn ở Triều Tiên và chia cắt nước Đức nhưng phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòaCộng hòa miền Nam Việt Nam bác bỏ và yêu cầu Hoa Kỳ ngừng bắn, ngừng phong tỏa miền Bắc. Các phiên đàm phán tiếp theo ở thế giằng co. Tới 14-08-1974, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra yêu cầu với Hoa Kỳ: chấm dứt chiến sự, ngừng can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam, rút quân, công nhận miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, ba lực lượng vũ trang. Trong đàm phán công khai, Hoa Kỳ rất cứng rắn nhưng trong đàm phán bí mật, cố vấn Kissinger bắt đầu nhượng bộ đối phương. Trong phiên thảo luận bí mật ngày 19-07-1972, Hoa Kỳ xuống thang khi chấp nhận thảo luận chính trị sau khi có Hiệp định hòa bình ở miền Nam. Hà Nội đánh giá tuyên bố của Kissinger ngày 19 tháng 7 về chính sách của Hoa Kỳ là có ý nghĩa tạo chuyển biến với thái độ mềm dẻo hơn và nhưng về cơ bản, tuyên bố đó vẫn lặp lại đề nghị ngày 2 tháng 5 ở điểm quan trọng nhất: tách vấn đề quân sự khỏi vấn đề chính trị. Lê Đức Thọ cho rằng chưa đủ căn cứ để kết luận: "khả năng Hoa Kỳ đi vào giải quyết với giá phải chăng là không nhiều".[6]. Phía Hoa Kỳ cũng có những vấn đề không nhất quán giữa các bên. Tổng thống Nixon muốn thông tin về các cuộc gặp riêng đến được giới báo chí để ông ta có thể khuếch trương các hoạt động tranh cử. Trong khi đó, Kissinger muốn vươn tới thực chất vấn đề vì ông ta nhận thấy rằng càng kéo dài đàm phán để đi đến một hiệp định bao nhiêu thì càng ít khả năng để tác động đến các sự kiện quân sự bấy nhiêu nếu như không đạt được một hiệp định hòa bình. Trong khi đó thì Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục có những hành động gây bất lợi cho đàm phán.

Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh thiết quân luật toàn lãnh thổ từ ngày 26 tháng 7 và tuyên bố rộng rãi lập trường bốn không: "Không thương lượng với kẻ thù", "không có hoạt động cộng sản ở miền Nam", "không chính phủ liên hiệp", "không mất lãnh thổ cho kẻ thù".[82]

Ngày 27-07, Chính quyền Thiệu gửi giác thư cho Hoa Kỳ đỏi đảm bảo cho sự tồn tại của mình. Chính quyền Thiệu muốn Quân đội Nhân dân Việt Nam phải rút khỏi miền Nam trước khi có giải pháp chính trị, phải ngừng bắn toàn Đông Dương chứ không chỉ ở Việt Nam, Chính phủ liên hiệp phải có lợi cho Thiệu.

Sự tiến triển của cuộc đàm phán giai đoạn này thể hiện ở việc các bên đã hạn chế sử dụng công thức "đề nghị" - "phản đề nghị" và đưa ra các chính sách của mình để cùng thảo luận. Thay vào đó, các bên lần lượt đưa ra các tuyên bố về chính sách hoặc các sáng kiến mà bên nào cũng cho rằng điều mình đưa ra là ưu việt nhất. Trong tháng 8, khi cuộc vận động bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ chuẩn bị bước vào giai đoạn sôi động nhất thì tại Paris, hai bên liên tiếp đưa ra các chính sách và các sửa đổi của mình nhưng vẫn ở trạng thái thăm dò mà mặc cả.

Ngày 1 tháng 8, khi nhận được phản ứng của Lê Đức Thọ về chính sách đàn áp mới của Nguyễn Văn Thiệu dẫn đến việc có hơn 3.300 thường dân bị bắt ở đồng bằng, riêng ở Đà Nẵng là 600 người và phía Hoa Kỳ có thái độ tiêu cực trong đàm phán thì Kissinger phải thừa nhận:

Ít nhất là một lần, lời tố cáo của ông ta rằng tôi không đưa ra "điều gì mới" cả, là chính xác.
— Henry Kissinger, [82]

Trong ngày 01-08-1972, Hoa Kỳ thể hiện rõ sự xuống thang khi đưa ra đề nghị 12 điểm trong đó chấp nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải từ nhiệm trước bầu cử, sẵn sàng rút hết quân Mỹ trước 31-12-1972 nếu có Hiệp định trước 01-09, chấp nhận giải quyết vấn đề quân sự-chính trị cùng một lúc.[5][83] Đáp lại, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra giải pháp 10 điểm, trong đó quy định toàn bộ nhân viên quân sự và kỹ thuật, vũ khí, bom đạn của Hoa Kỳ phải được rút khỏi Việt Nam, các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ tại việt nam bị giải tán; trao trả tù binh và dân thường trong vòng 1 tháng sau khi ký Hiệp định; tiến hành ngừng bắn tại chỗ và có sự giám sát của quốc tế; Hoa Kỳ ngừng viện trợ quân sự cho chính quyền Sài Gòn; Chính quyền Thiệu bị giải tán và được thay thế bằng chính phủ liên hiệp ba thành phần gồm Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa (nhưng không có tàn dư của Thiệu) và lực lượng thứ ba với tỷ lệ ngang nhau trong chính quyền; Tổ chức tổng tuyển cử để thành lập chính phủ mới với Hiến pháp mới; Chính quyền Sài Gòn sẽ thảo luận với Cộng hòa miền Nam Việt Nam về các vấn đề của riêng miền Nam, có thêm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi có vấn đề liên quan giữa hai miền và chỉ có thêm Hoa Kỳ khi diễn biến liên quan tới cả bốn bên. Phía Hoa Kỳ đồng ý mở bốn diễn đàn nhưng theo lộ trình "hai gói": "gói thứ nhất" giải quyết trước các vấn đề nguyên tắc giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ký kết hiệp định trước; "gói thứ hai" giải quyết các vấn đề cụ thể theo kết quả của gói thứ nhất.[5]

Đến ngày 14-08, Hoa Kỳ đưa ra đề xuất 10 điểm, tương đồng với đề xuất 10 điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng có sửa đổi vấn để rút quân, ngừng bắn và tổ chức bầu cử. Cụ thể:

  • Rút khỏi Việt Nam toàn bộ quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh của Hoa Kỳ;
  • Việc thống nhất Việt Nam do Nam và Bắc Việt Nam quyết định;
  • Tôn trọng các Hiệp định Giơ ne vơ 1954 và 1962;
  • Đông Dương là khu vực hòa bình, độc lập và trung lập;
  • Ngừng bắn tại chỗ có giám sát quốc tế, kiểm soát quốc tế.[6]

Các điểm mà hai bên còn có nhận thức khác nhau gồm:

  • Thời hạn rút quân đội Hoa Kỳ và đồng minh;
  • Vấn đề viện trợ quân sự cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa;
  • Các vấn đề chính trị có liên quan như: vai trò của Nguyễn Văn Thiệu và việc thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần. Theo Kissinger, các lực lượng chính trị ở Nam Việt Nam chỉ có hai thành phần rưỡi vì lực lượng thứ ba không thể đặt ngang hàng với chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời.[5]
  • Hoa Kỳ không cam kết bồi thường chiến tranh nhưng sẵn sàng nhận thấy cần có một chương trình tái thiết cho toàn Đông Dương.[6]

Cụ thể, phía Hoa Kỳ muốn rút quân và trao trả tù binh trong 3 tháng thay vì 1 tháng, ngừng bắn trên toàn Đông Dương chứ không chỉ ở riêng Việt Nam. Về viện trợ, Hoa Kỳ muốn lập lờ về thời hạn chấm dứt viện trợ cho VNCH thay vì ngừng ngay sau khi có Hiệp định, thậm chí Hoa Kỳ vẫn sẽ viện trợ cho các chính phủ ở Đông Dương. Hoa Kỳ cũng lật lại vấn đề của chính quyền Thiệu, theo đó, chính quyền Thiệu không bị giải tán, sẽ không có chính phủ liên hiệp 03 thành phần mà thành lập Hội đồng hòa giải dân tộc với 03 thành phần. Về cung cách đàm phán, Hoa Kỳ vẫn muốn tách vấn đề chính trị khỏi vấn đề quân sự trong các cuộc đàm phán riêng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[73]

Phía Việt Nam không nhất trí với lộ trình đàm phán "hai gói" của Hoa Kỳ. Họ cho rằng việc vạch ra hai bước này là để duy trì chế độ hiện hành ở miền Nam Việt Nam với đầy đủ bộ máy đàn áp trong tay. Trong như vậy điều kiện như vậy, cơ quan độc lập để tổ chức bầu cử sẽ bị vô hiệu hoá và vấn đề tự do dân chủ sẽ chỉ còn là hình thức. Lê Đức Thọ kết luận: "Hoa Kỳ không thể dùng đàm phán để làm một việc mà lực lượng quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ mười năm qua đã không làm được".[6]. Ông cho rằng cuộc gặp lần này lập trường hai bên còn cách xa nhau, đặc biệt là về các vấn đề chính trị vì các bên mới tỏ thiện chí chứ có kết quả cơ bản hay tiến bộ rõ rệt như phía Hoa Kỳ đánh giá. Kissinger nhìn nhận Lê Đức Thọ đã đưa ra nhiều đề nghị khá nghiêm túc nhưng lại phàn nàn rằng kế hoạch của Hoa Kỳ đã bị những đề nghị của Lê Đức Thọ làm cho lỗi thời và vô hiệu. Còn Richard Nixon thì cho rằng cuộc gặp này "không có tiến bộ nào" và "sự lui bước đáng thất vọng trong thương lượng mà Kissinger thực hiện có thể sẽ phương hại đến các vấn đề chính trị".[5] Hai bên thỏa thuận ngày 15 tháng 9 sẽ gặp lại.

Nhận thấy những cuộc thăm dò đã có một số kết quả tuy chưa rõ ràng, phía Việt Nam chuẩn bị cho cuộc gặp riêng thứ 17 với phương án mềm dẻo hơn nhằm tăng khả năng giải quyết với phía Hoa Kỳ trước cuộc bầu cử tổng thống của họ. Mặt khác, Hà Nội cũng chứng minh thiện chí của mình bằng việc đón tiếp trọng thị vị đặc phái viên của ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ thuộc Đảng dân chủ McGovern cùng với việc phóng thích ba tù binh Hoa Kỳ nhân ngày Quốc khánh 2-9 như một sự ủng hộ cho uy tín của ông này và tăng thêm sức ép đối với Nixon[6]. Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ vẫn tiếp tục có những sự không nhất trí trong nội bộ giới lãnh đạo của họ cũng như trong ứng xử đối với Sài Gòn. Theo Kissinger có ba khả năng: đạt được giải pháp hòa bình trước bầu cử, kết thúc chiến tranh bằng leo thang oanh kích sau bầu cử hoặc tiếp tục kéo dài chiến tranh với hy vọng Hà Nội phải nhượng bộ[5] Mặc dù Kissinger vẫn thiên về phương án đạt được giải pháp hòa bình trước bầu cử nhưng trong cuộc gặp giữa Nixon, Kissinger và đại sứ Elsword Bunker tại Honolulu ngày 31 tháng 8 thì Nixon lại tính khác. Tin ở khả năng tái cử của mình, ông ta cho rằng nên hoãn các cuộc thương lượng lại đến sau bầu cử. Mặc dù sự chống đối một giải pháp hòa bình của Thiệu ngày càng làm cho Nixon bực mình, nhưng chính ông ta trong những tuần tiếp theo cũng không muốn ký một hiệp định trước cuộc bầu cử nếu nó không có chính điều mà ông ta muốn.[82]

Tới cuối tháng 8, sự kháng cự của Nguyễn Văn Thiệu trở nên mạnh mẽ trước sự xuống thang của Hoa Kỳ. Trong thư gửi Nixon ngày 30-08, Thiệu vẫn đòi Hoa Kỳ phải đảm bảo cho sự tồn tại của chế độ Sài Gòn và nhắc lại việc Hoa Kỳ đã từ chối các sáng kiến của Việt Nam Cộng hòa về vấn đề chính trị của miền Nam sau khi có Hiệp định. Đồng thời, Thiệu đòi Hoa Kỳ phải tham vấn Việt Nam Cộng hòa trước khi thảo luận với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam.[84]

Bức thư ngày 31 tháng 8 của Nixon gửi cho Nguyễn Văn Thiệu với cam kết Hoa Kỳ không thể "mua bán hòa bình hoặc danh dự hoặc bù lại những hy sinh của mình bằng cách từ bỏ một đồng minh dũng cảm" và vài lời khích lệ đối với "vai trò lãnh đạo thực sự" của Nguyễn Văn Thiệu đã làm ông ta tin rằng Hoa Kỳ phải phụ thuộc vào mình. Trong thư, Nixon cũng đề nghị phía Việt Nam Cộng hòa hợp tác với Hoa Kỳ trên cơ sở tin cậy lẫn nhau và cam kết sẽ chỉ đạo Đại sứ Bunker tại Sài Gòn phải liên lạc chặt chẽ với Thiệu để tham vấn lẫn hhau trước khi đưa ra lập trường chung.[85]

Kissinger cho rằng Nguyễn Văn Thiệu "không sẵn sàng cho một nền hòa bình thương lượng" mà muốn "một sự đầu hàng không điều kiện" của đối phương. Chính sự cứng nhắc đó của Nguyễn Văn Thiệu đã làm cho phái đoàn Hoa Kỳ trở nên khó xử và đàm phán lại bế tắc.

Không tìm được sự ủng hộ tích cực từ Nixon nhưng lại có được thông tin từ chiến trường đưa đến về việc Quân lực Việt Nam Cộng hòa tái chiếm thành công Thành cổ Quảng Trị, giữ được An Lộc (nhưng vẫn bị vây lỏng từ tháng 5-1972) và Kon Tum (nhưng vẫn bị vây lỏng và chưa giành lại được các vị trí chiến lược ở Bắc Tây Nguyên); Kissinger đã điều chỉnh lại lập trường của mình và tiến hành các cuộc gặp riêng với đại sứ Liên Xô và đại sứ Trung Quốc tại Washington trước khi gặp lại Lê Đức Thọ tại Paris ngày 15 tháng 9. Mặc dù Kissinger chủ động đưa ra sáng kiến mười điểm mới nhưng theo Lê Đức Thọ đánh giá nó không những không khác với đề nghị hồi tháng 8 mà còn chứa đựng những "từ ngữ không rõ ràng" và có nhiều điểm thụt lùi so với sáng kiến lần trước[6].

Hoa Kỳ lặp lại đề nghị Việt Nam Cộng hòa là một quốc gia riêng, không thừa nhận Chính phủ Cách mạnh lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam mà chỉ thừa nhận Mặt trận dân tộc giải phóng như một lực lượng chính trị trong khuôn khổ hiến pháp VNCH (sẽ sửa đổi). Trong đề nghị của mình, Kissinger yêu cầu giải quyết "công bằng" đối với các lực lượng vũ trang ở miền Nam chứ không phải là "bình đẳng", không chấp nhận "ngừng bắn tại chỗ" mà chỉ chấp nhận "ngừng bắn chung"; không những lặp lại đề nghị đòi quân đội miền Bắc phải rút khỏi miền Nam mà còn phải rút khỏi Lào và Cam Pu Chia trong khi không đả động đến các lực lượng Hoa Kỳ và Thái Lan có mặt tại đây. Kissinger còn đòi đưa các nước có quân tham chiến (đương nhiên là cả Hoa Kỳ) vào giám sát ngừng bắn.[5]

Đoàn Việt Nam nhận biết nhưng tỏ ra không quan tâm đến sáng kiến mới của phía Hoa Kỳ mà chỉ đồng ý rằng đã đến thời điểm phải nhanh chóng đi đến một giải pháp. Phía Việt Nam chỉ yêu cầu giải quyết ba loại vấn đề: tuyên bố về chính sách, nội dung giải pháp và cách thức thương lượng và đưa ra đề nghị thời hạn rút quân của Hoa Kỳ là 45 ngày sau ký hiệp định toàn bộ. Lê Đức Thọ cũng không nhắc đến yêu cầu giải tán chính quyền Thiệu mà trong các cuộc họp hồi tháng 5 và tháng 7, ông vẫn coi là điều kiện tiên quyết. Hai bên cũng bắt đầu bàn đến thành phần của Uỷ ban giám sát quốc tế gồm bốn nước, trong đó có ít nhất hai nước đã tham gia giám sát thi hành Hiệp định Genève. Kissinger muốn hai bên gặp lại sau một tuần nhưng Lê Đức Thọ không đồng tình vì ông cho rằng phía Hoa Kỳ "chưa thật sự muốn đi vào giải pháp sớm".[6]. Cụ thể, phía Việt Nam muốn ở Trung ương sẽ có chính phủ hòa hợp dân tộc cấp Trung ương, từ cấp tỉnh trở xuống là các Ủy ban hòa hợp dân tộc với tỷ lệ tham gia của 03 thành phần là ngang nhau, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn tồn tại và thực hiện quản lý hành chính tại các vùng mình kiểm soát trong thời gian chờ Tổng tuyển cử, Chính phủ hòa hợp dân tộc hoạt động trên nguyên tắc không bên nào lấn át bên nào.[73]

Tới ngày 16-09, trùng với thời điểm Quân Giải phóng rút hết khỏi Thành cổ Quảng Trị, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra đề nghị Chính phủ hòa hợp dân tộc gồm 12 ủy viên, 1 đoàn chủ tịch gồm 3 đại diện của 3 thành phần; chính phủ này hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận và 5 ủy ban trực thuộc bao gồm: Quân sự liên hợp, Chính trị, Tổng tuyển cử, Đối ngoại và Dự thảo Hiến pháp.[73].

Cuối cùng Lê Đức Thọ chấp nhận đề nghị của Kissinger về việc cố gắng giải quyết chiến tranh trước ngày 15 tháng 10 và hẹn gặp lại để bàn cụ thể trong hai ngày 26 và 27 tháng 9.[5] Hà Nội điện cho Lê Đức Thọ đồng ý với thời điểm này.

Cuộc gặp ngày 26 và 27 tháng 9 đem lại những kết quả tích cực. Phía Hoa Kỳ xác nhận quyết tâm đi đến một giải pháp nhưng cảnh báo trước những trở ngại có thể diễn ra từ phía Sài Gòn.[5] Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra kế hoạch làm việc với các nội dung:

  • Công thức 12/3 cho chính phủ hòa hợp dân tộc lâm thời với quyền lực hạn chế và phải theo nguyên tắc đồng thuận; do đó, không cần có Uỷ ban hòa giải dân tộc mà cần phải bầu cử Quốc hội lập hiến.
  • Nhất trí với Hoa Kỳ về thành phần Uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế nhưng chỉ gồm 4 nước.
  • Giải quyết vấn đề Việt Nam trước, sau đó mới gắn với vấn đề Đông Dương.
  • Cam kết giúp Hoa Kỳ giải quyết vấn đề quân nhân Mỹ bị các lực lượng Pathet Lào bắt làm tù binh (trên thực tế không có tù binh Hoa Kỳ ở Cam Pu Chia).[6]

Đoàn Hoa Kỳ cũng trao cho đoàn Việt Nam 4 văn bản về các vấn đề: rút quân và thả tù binh chiến tranh; lập Uỷ ban giám sát quốc tế gồm 5 nước; ngừng bắn chung trên toàn Đông Dương; bảo đảm quốc tế. Tuy hoan nghênh những đề nghị mới của Việt Nam nhưng Kissinger vẫn lặp lại hai vấn đề: chỉ công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một lực lượng chính trị, không thừa nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và quân miền Bắc phải rút khỏi miền Nam[5]. Lê Đức Thọ cho rằng đó là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và quyền tự quyết, quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam; do đó, nó có tính nguyên tắc và không thể nhân nhượng được. Ông đề nghị phía Hoa Kỳ cũng nên có đi có lại vì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuy muốn có hòa bình, độc lập nhưng không phải với bất kỳ giá nào.[6]

Đoàn Hoa Kỳ cho rằng đề nghị mới của họ với bốn vấn đề có tính chất như nghị định thư kèm theo hiệp định đã đáp ứng mối quan tâm của Việt Nam.[5] Phía Việt Nam đánh giá Hoa Kỳ chỉ có những nhân nhượng nhỏ giọt, kéo dài đàm phán, thỏa thuận nửa chừng để trợ giúp Nixon vượt qua bầu cử và tranh thủ thời gian đổ thêm viện trợ vào miền Nam để tăng tiềm lực quân sự cho chính quyền Sài Gòn.[6]

Richard Nixon, Gerald Ford, Kissinger và Alexander Haig tại Nhà Trắng (1973)

Ngày 30 tháng 9, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gạt bỏ khả năng cắt đứt đàm phán bằng cách tập trung biên soạn dự thảo hiệp định của phía mình trên cơ sở kết hợp mười điểm lập trường của mình đưa ra ngày 26 tháng 9 với mười điểm lập trường của Hoa Kỳ đưa ra ngày 27 tháng 9. Phía Hoa Kỳ nhận được bản dự thảo hiệp định từ phía Việt Nam ngay khi bắt đầu phiên họp ngày 8 tháng 10. Kissinger cho rằng đây là một bước tiến bộ rất lớn. Hoa Kỳ cuối cùng đã đạt được điều mà mình tìm kiếm: một nền hòa bình phù hợp với danh dự và trách nhiệm quốc tế của Hoa Kỳ, một mục tiêu mà mười năm chiến tranh và ba chính quyền đã không làm được việc đó. Tướng Alexander Heige (từng tham gia chỉ huy các lực lượng trên bộ của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam) tuyên bố: "Chúng ta đã cứu vớt danh dự cho bao người đã chiến đấu, đau khổ và hi sinh ở nơi đó"[5]

Ngày 08-10-1972, bỏ qua các ý kiến của Thiệu, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trao cho phái đoàn Hoa Kỳ một bản dự thảo Hiệp định. Trong đó, chỉ ngừng bắn ở miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ phải rút hết quân cùng vũ khí và trang thiết bị kỹ thuật, gỡ bỏ phong tỏa và ngừng ném bom miền Bắc, việc rút quân sẽ do Ban Liên hợp Quân sự 4 bên điều phối, tù binh và dân thường phải được trao trả trong 2 tháng, lực lượng vũ trang các bên ở miền Nam tập kết tại chỗ và tiến hành giảm quân, tiến tới giải ngũ toàn bộ, trong vòng 15 ngày sau khi ký Hiệp định thì thành lập Hội đồng Hòa giải Quốc gia và nó sẽ hoạt động theo nguyên tắc nhất trí, trong vòng 3 tháng sau khi có Hiệp định thì các bên ở miền Nam phải tiến hành ký một hiệp định nội bộ của miền Nam, 5 tháng sau khi ký Hiệp định thì Tổ chức Tổng tuyển cử ở miền Nam.

Để đáp ứng với bước tiến của phía Việt Nam, cả đêm mùng 8 và ngày 9 tháng 10, đoàn Hoa Kỳ đã lao động cật lực để soạn một dự thảo hiệp định của phía mình để trao lại cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó, các trợ lý của hai đoàn đối chiếu với hai bản dịch tiếng Anh và tiếng Việt, tu chỉnh kỹ thuật những chỗ chưa chuẩn xác để hai phía tiếp tục thảo luận.[6].

Trong hai cuộc họp tối mùng 9 và ngày 10 tháng 10, hai bên xem xét, thảo luận và điều chỉnh từng điểm một trong dự thảo hiệp định. Một loạt các vấn đề Hoa Kỳ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, cam kết chấm dứt chiến tranh, chấm dứt dính líu quân sự; vấn đề trả tù binh chiến tranh của các bên; vấn đề thống nhất hai miền của Việt Nam; vấn đề xúc tiến đàm phán về Lào; vấn đề nhân viên dân sự nước ngoài ở miền Nam; quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ sau chiến tranh; vấn đề rà phá thuỷ lôi, bom mìn; vấn đề cơ cấu chính quyền "Hội đồng hòa giải quốc gia và hòa hợp dân tộc"; vấn đề hiệp thương tổng tuyển cử... lần lượt được hai bên nhượng bộ lẫn nhau và nhất trí về cơ bản[6].

Trong cuộc gặp riêng ngày 11 tháng 10 năm 1972, đoàn Hoa Kỳ đưa ra đề nghị tám điểm; trong đó có một số điểm mới: đề nghị một thời hạn rút quân trong bảy tháng (phụ thuộc vào thời điểm ký kết hiệp định); tổ chức tuyển cử tự do và dân chủ bầu tổng thống và phó tổng thống Việt Nam Cộng hòa, các tổng thống và phó tổng thống đương quyền sẽ từ chức trước thời điểm bầu cử một tháng, một cơ quan độc lập bao gồm đại diện các lực lượng chính trị ở miền Nam tham gia sẽ chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử có sự giám sát quốc tế. Tuy nhiên, khác với lập trường khi Trận Thành cổ Quảng Trị đang diễn ra là Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể ở lại Lào và Campuchia thì lần này phía Hoa Kỳ lại đề nghị: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải rút quân khỏi LàoCampuchia, chính quyền mới phải được tổ chức trên cơ sở hiến pháp của Việt Nam Cộng hòa[5].

Cũng trong tháng 10 năm 1972, Hà Nội đón Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô Nikolai Podgorny, ông này gợi ý phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên cân nhắc đề nghị trên của Hoa Kỳ nhưng phía Việt Nam từ chối.

Ngày 17-10, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa duyệt dự thảo lần cuối và lên lịch ký Hiệp định. Ngày 19-10, Kissinger được Nixon chỉ thị là bằng mọi cách phải thuyết phục được Thiệu. Mặc dù đạt được khá nhiều kết quả nhưng Kissinger vẫn cho Lê Đức Thọ biết rằng ông ta phải thuyết phục những người khác. Khó khăn nhất là phía Hoa Kỳ còn phải thuyết phục được cả Việt Nam Cộng hòa lẫn những nhân vật ủng hộ họ trong chính giới Mỹ. Hai bên đã thỏa thuận được một lịch trình ký tắt (vào ngày 22 tháng 10, trong chuyến đi con thoi Hà Nội-Sài Gòn của Kissinger), công bố (ngày 26 hoặc 27 tháng 10) ký kết (ngày 29, 30 hoặc 31 tháng 10).[6] Ngày 23-10, Hoa Kỳ ồ ạ gửi vũ khí, quân trang, quân dụng và đạn dược cho chính quyền Sài Gòn. Cũng trong ngày 23-10, lấy lý do Thiệu chưa chấp nhận, phía Hoa Kỳ đề nghị lùi lịch ký Hiệp định. Ngày 26-10, để phản đối hành động của Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố toàn bộ bản dự thảo và các cam kết của Hoa kỳ tại phiên họp thứ 164 của Hội nghị.[86]

Tổng thống Nixon cho rằng Hoa Kỳ đã đạt được cả ba mục tiêu quan hệ quốc tế trọng yếu trong năm 1972: quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc, mở ra quan hệ với Liên Xô, giải quyết chiến tranh ở Việt Nam trong danh dự. Nixon kết luận: "Tất cả những điều quy định có ý nghĩa tương đương với một sự đầu hàng hoàn toàn của kẻ thù. Họ đã chấp nhận một giải pháp theo điều kiện của chúng ta.[70] Cả Nixon và Kissinger đều tuyên bố trước dư luận: hòa bình đã ở trong tầm tay.

Washington có lý do để vui mừng nhưng Hà Nội chưa vội khuếch trương kết quả quan trọng mới của Hội nghị Paris. Họ nhận thấy Nixon còn có khả năng vượt qua bầu cử mà không cần vội ký kết hiệp định do bản hiệp định vẫn còn hai điểm để ngỏ: vấn đề thay thế vũ khí và thả tù chính trị (được gọi là nhân viên dân sự). Mặt khác, Nixon cũng giành thêm được sự ủng hộ so với McGoverne sau thành công của Kissinger ở Paris. Từ Sài Gòn, Nguyễn Văn Thiệu vẫn lớn tiếng tuyên bố không thể ủng hộ một thỏa thuận sau lưng mình. Vì vậy, Hà Nội chuẩn bị sẵn sàng đơn phương công khai hoá dự thảo hiệp định nếu Hoa Kỳ không chịu ký kết và xa hơn nữa, đề phòng Hoa Kỳ cắt đứt đàm phán và ném bom trở lại.[6]

Dư luận quốc tế đánh giá cao những nỗ lực của cả hai phía, đặc biệt là trong ba tuần làm việc căng thẳng cuối tháng 9 giữa Lê Đức Thọ và Kissinger để cuối cùng, đã phác hoạ được những nét cơ bản cho dự thảo hiệp định tương đối hoàn chỉnh. Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô L.I.Brezhnev cho rằng Việt Nam đã đạt được hai mục tiêu cơ bản về chấm dứt sự dính líu của Hoa Kỳ và được công nhận thực tế hai chính quyền ở miền Nam. Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai cũng bày tỏ sự đồng tình với sách lược đấu tranh của Việt Nam.[87]

Liên quan

Hội nghị thượng đỉnh Triều Tiên – Hoa Kỳ tại Hà Nội 2019 Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2021 Hội nghị Lập hiến (Hoa Kỳ) Hội nghị Thành Đô Hội nghị thượng đỉnh Bắc Triều Tiên – Hoa Kỳ 2018 Hội nghị Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu Hội Nam Hướng đạo Mỹ Hội Nữ Hướng đạo Mỹ Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Hội Người cao tuổi Việt Nam

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hội_nghị_Paris,_mặt_trận_ngoại_giao_năm_1968-1972 http://www.history.com/this-day-in-history/u-s-sou... http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/tu-lieu/nhun... http://baophapluat.vn/an-ninh-quoc-phong/su-kien-v... http://baophapluat.vn/phap-luat-4-phuong/nguyen-va... http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/tha... http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu... http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu... http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu... http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/14969902-.... http://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/bi-mat-ve-chiec-ban...